Biển Đầm

22/06/20071:19 SA(Xem: 2211)
Biển Đầm

Cánh cổng sắt sáng nay kêu rít và nặng nề hơn dưới làn mưa bụi ẩm. Tôi chưa kịp bước ra lề đường có tiếng gọi giật sau lưng :

- Mai anh về ? Ngập ngừng vài giây tôi mới quay lại. Hà còn áo ngủ trắng đứng dưới vòm cửa cong, những chậu cây thả lá xanh và tím trên mái tóc cô gội ướt. Ánh đèn vàng dịu ấm cúng sáng từ hành lang sau lưng. Câu hỏi của Hà vẫn là câu thường lệ nhưng dường như lần này cô thực sự đợi tôi trả lời. Đôi mắt tròn càng to, xoáy hỏi. Không, tôi nhiều tưởng tượng quá thôi. Hà vẫn như mọi ngày, người đàn bà của mọi ngày, đâu gì khác. Tôi đáp :

- Ừ, ngày mai. Vừa vội vàng xoay người khép cánh cổng, trong đầu tôi chập chờn:

- Có thể. Khi cho chiếc chìa khoá mở cửa xe đậu bên lề, tôi lại nghe mình tự hỏi :

- Ngày mai…hay bao giờ? Những tụm lá ngô đồng vàng úa đang cuộn vần trên con đường còn vắng. Tôi nhấn mạnh ga, chiếc xe phóng đi, lao theo đám lá bốc bay tan tác và cánh áo nàng vẫy gọi. Bóng lụa tím chợt ẩn chợt hiện giữa hàng cây trơ cành trong bầu trời chưa kịp sáng.

Không khí hầm rượu không nóng lắm nhưng ẩm. Những lúc tiếng nhạc chợt im bặt, ngồi sát tường tôi chừng nghe ra nước vỗ phía ngoài, đập vào nền đá hoa dựng trên những trụ gỗ thông đóng cọc dưới nước cả mấy trăm năm. Quầy rượu nằm sâu trong góc, dưới một vòng cung tuôn nhung thẫm từ trần, gắn đầy mặt nạ đủ hình thù, có cái trắng tinh, tròn xoe với cặp mắt ngây thơ nhỏ những giọt lệ, có cái ủng đen trợn trừng quỷ quyệt dưới một mớ khăn bóng xanh rờn chen màu đỏ máu. Mặt nạ thầy thuốc khoằm mỏ, đeo kính tròn ngoài hai hốc mắt treo gần một khuôn mặt công nương tuyệt vời với mái tóc tủa cao những lông chim ngũ sắc đầy kim tuyến óng ánh. Hôm tôi mới đến, thằng bạn đã dặn, Ít nhất mày phải tới quán rượu ấy một lần trước khi rời Venise. Hắn chỉ nheo mắt không nói rõ điều gì. Đã chín giờ tối, quán vẫn vắng. Ba gã thanh niên Ý đang chơi bài nhưng không ồn ào lắm. Ở quầy, hai người đàn ông Đức to con tán tỉnh cô gái rót rượu, giọng tiếng Anh rồ rồ cứng đục. Cô gái ra ngồi trước quầy, vắt vẻo trên chiếc ghế đẩu cao, son phấn rực màu, quần soọc ngắn tận bờ mông tròn trĩnh, thỉnh thoảng hấc tiếng cười hăng hắc.

Đã cạn hai ly scotch, hút dăm điếu thuốc, vẫn thấy ngoài cái quầy quyến rũ vẻ ma quái kia chẳng có gì lạ, tôi thất vọng định đứng dậy đi ra. Bỗng tiếng người ồn ào và cánh cửa mở tung. Một toán người y phục hoá trang cười đùa xô đẩy bước vào. Không khí đột nhiên bùng lên với mùi rượu nồng, tiếng nhạc và giọng hô lê rộn rã, cùng tiếng vải vóc chạm nhau sột soạt. Đa số đều đeo mặt nạ, tôi chợt nhớ ra gần đến ngày hội giả trang nổi tiếng nhất của thành phố lênh đênh sông nước này. Ba gã thanh niên đã dẹp bàn bài, bấy giờ tôi mới để ý đến tên trẻ nhất, độ hơn hai mươi với khuôn mặt nhọn và cặp mắt đen dữ dằn dưới vòng chân mày bừa bãi. Hắn cầm ly rượu lắc người theo điệu nhạc, bất ngờ đứng lại, nhìn sững ra cửa vào, đẩy một tiếng kêu khàn. Hai người đàn bà vừa bước qua ngưỡng cửa. Một người áo vàng viền xanh lộng lẫy, mặt nạ trắng mịn màng với hai vòng mắt tô xám xếch tới mang tai, mũ đen cao rộng vành, điểm những ngôi sao rực vàng vương giả.

Tôi ngẩn người khi nhận ra nàng, thiếu phụ đã cùng đến Venise, trên chuyến tàu đêm hai hôm trước. Nàng chỉ quàng chiếc áo choàng tím, một thứ lụa thật óng ả dưới sắc đèn. Nàng không che mặt, mái tóc ánh nâu cột lại bằng một vòng hoa trắng. Người đàn bà áo vàng đứng dừng một phút dường để mọi người có thời gian chú ý đến sự xuất hiện của mình. Một vài tiếng trầm trồ huýt sáo nổi lên. Sau vành miệng hở cong yểu điệu của mặt nạ, lộ hai ba chiếc răng trắng sáng. Người đàn bà chầm chậm lướt vào. Tôi đứng gần nghe mấy chuỗi hạt pha lê lóng lánh màu, treo lỏng từ vành mũ trái sang phải chạm vào nhau theo từng bước đi, vang những tiếng reo lanh canh trong trẻo. Thiếu phụ đường bệ bao nhiêu thì nàng càng dáng vẻ ngỡ ngàng khép nép, tay bám vào cánh áo bà ấy. Một gã đàn ông đi giầy ủng đóng đầy đinh bạc, giả trang trong y phục toàn đen ràng thắt lưng to bản, mặt nạ dơi choắt cheo, bộ tịch nghiêng người hôn tay thiếu phụ. Bà bật tiếng cười khanh khách, quay sang vỗ nhẹ lên tay nàng như để giới thiệu với mọi người. Nàng e dè đảo mắt chung quanh, thoáng ánh ngạc nhiên khi thấy tôi đứng dựa bờ tường. Tôi đã định ra về, tự nhiên ngồi trở lại nhìn theo hai người đàn bà ấy đi về quầy rượu. Thỉnh thoảng thấp thoáng bóng lụa vàng lấp lánh và giọng cười thiếu phụ vang vang đùa cợt. Không khí trong hầm càng lúc càng nóng hơn, nhiều người bắt đầu cởi bỏ mặt nạ. Những mái tóc, khuôn mặt thật đàn bà trang điểm rực rỡ chuyển động kỳ ảo lẫn lộn trong ánh đèn mộng mị, dưới những mặt nạ chờn vờn trên tấm màn nhung đỏ. Trong men các ly rượu kế tiếp tôi dễ dàng nhập cuộc, kề cận với những gương mặt ấy. Cọ sát vải lụa, da thịt, rộn ràng giữa tiếng nhạc lúc bùng bùng dồn dập, lúc mơn trớn mê muội. Tất cả đặc quện trong khói thuốc cuộn tròn dưới vòm trần đá.

Khi tôi đến gần quầy rượu thì cùng lúc ấy gã thanh niên chơi bài ngả nghiêng bước tới trước nàng. Gã ngoẹo đầu cười cợt, Ô, bella mia, người đẹp của tôi! Một tay vờn lên vuốt đuôi tóc nhỏ. Nàng lùi giật lại, vòng hoa trắng buộc lơi trên tóc tuột theo những ngón tay dài nhọn của gã thanh niên. Hắn giơ lên khoái chí, kêu oác như quạ. Tôi và thiếu phụ cùng vội vàng bước đến. Gã ta xô đẩy tôi, la lối nhưng rồi cũng dang ra, tung vòng hoa lên trần và chụp hứng. Nàng nói nhỏ bằng tiếng Pháp với thiếu phụ, Je m’en vais, tôi về đây. Tự nhiên tôi nhìn vào hai vùng mắt xám, con ngươi trong xanh của người đàn bà áo vàng đằng sau rọi thẳng lại, tia nhìn nửa dò xét nửa giễu cợt. Nhưng bà ta không tỏ ý ngăn cản khi tôi cùng nàng ra cửa, còn ngoái trông theo.

Bến Rialto cả ngày tấp nập tưng bừng như thế, nhưng giữa mùa đông nên gần nửa đêm đã chìm vào im lặng. Một vài quán ăn còn lấp lánh ánh đèn trong lớp sương trắng dâng lên từ con kinh lớn. Chẳng mấy chốc tựa như khói lan lấn vào bờ, liếm phủ các mặt nhà cổ kính và luồn xuống những cây cầu gạch nhỏ. Chiếc vaporetto cuối cùng còn đậu ở bến, thoáng thấy bóng người, lái thuyền lên tiếng gọi. Bấy giờ tôi mới hỏi:

- Cô ở đâu? Nàng đáp : -Khu nhà hát Fenice. Rồi ngập ngừng :

- Nếu không phiền, anh đưa tôi về đến đó được chăng?

Tôi vội vàng :

- Được chứ, nhưng cần đi thuyền không?

- Chẳng xa đâu, chúng mình có thể đi bộ, thèm không khí quá.

Hai chữ chúng mình trong giọng nàng thân mật lạ, tôi lâng lâng nghĩ, nhà hát Fenice không biết ở đâu, lạy trời nó rất xa, tuốt bên kia cái thành phố bỗng dưng lúc này trở thành cỏn con. Tôi sẵn sàng đi theo tà áo tím mềm mại, trải thật nhiều con đường, qua trăm cây cầu chạm trổ muôn hình vạn vẻ, băng ngang những con lạch chi chít mà dòng nước chỉ còn là một giải thạch đẫm tối trong đêm. Chúng tôi bước đều bên nhau, tiếng gót giầy khẽ vang trên những viên gạch lồi lõm cũ mòn. Thỉnh thoảng vài ba người trờ ra từ hiệu ăn hay quán bar nhỏ. Giọng cười nói rúc rích, chừng như không thể thoát cao vì bị giam lại giữa tường đá dinh thự hay những ngôi nhà viền hai bên con đường quanh co quá hẹp. Càng xa bờ kinh lớn, sương lãng đãng hơn, lửng lơ trên mái ngói và những ngọn cây trong công trường nhỏ. Tới gần khu San Fantin chợt có tiếng phong cầm nổi lên từ lạch nước lọt giữa hai dãy nhà màu tường vàng viền những ô cửa xám. Nàng vội bước lên chiếc cầu gần đấy, gã chèo gondole ngẩng lên cười vẫy tay, cất ngay lời ca tình tứ. Chiếc thuyền lướt qua dưới cầu rồi xa dần cùng giọng hát tan biến vào bóng tối bên kia con lạch hẹp lại dần. Nàng tựa vào những thanh sắt uốn cong của thành cầu, kéo vòng mảnh voan trắng quấn quanh cổ. Yên lặng từ nãy đến nay, bỗng nhiên nói :

- Anh du lịch một mình.

Tôi lắc đầu :

- Không, tôi đến làm việc vài ngày.

rồi tiếp :

- Venise chừng quen thuộc lắm với cô.

Nàng nói nhỏ, như chỉ cho mình :

- Vâng, tựa một gắn bó.

Tôi ngắm dáng nàng mềm cúi nghiêng dòng nước :

- Cô thường đến đây mùa đông?

Nàng mỉm nụ cười mông lung nhưng đáp thật gọn, không dính dáng gì tới câu hỏi :

- Thăm Mélisa.

- Ồ, Mélisa, người đàn bà áo vàng.

Nàng chớp mắt xác định. Dưới ánh đèn lồng chiếu xuống từ hai đầu cầu, bây giờ tôi mới nhìn kỹ gương mặt đường nét dịu dàng nhưng hơi gầy, dù chiếc cằm lộ chút gì cương nghị, miệng khi cười lại thoáng trẻ thơ. Ấn tượng nhất là nước da trắng xanh làm nổi bật trũng mắt đen sâu với hai đồng tử long lanh. Thật ra tôi đã xao động bởi cặp mắt này từ lúc đứng với Hà trên sân ga tối ấy. Hà líu lo dặn dò, vẫn những lời trăm lần như một khi tôi đi công tác xa, rồi kiễng chân choàng tay qua cổ. Tôi cúi hôn Hà từ giã nhưng mắt bỗng chạm phải ánh nhìn vừa lướt qua của nàng, người đàn bà mảnh mai trong chiếc áo dạ đen với mái tóc cài cao quá gáy còn lóng lánh những bụi mưa vừa đi tới. Tôi đẩy Hà ra về khi tiếng chuông báo hiệu tàu sắp chạy. Hà quay bước còn ngoảnh lại dặn với :

- Nhớ chọn cái mặt nạ thật nhiều màu cho em. Leo lên bực thang tàu tôi vừa gật đầu:

- Yên tâm, Signora, vừa đảo mắt tìm, nhưng chiếc áo dạ đen đã biến đi vào một toa nào đó.

Không ngờ, giữa không gian hư ảo sương mù nửa đêm, trên cõi sông nước, đá cổ mơ hồ này tôi lại đứng bên nàng, thật gần, cơ hồ chạm cả vào vuông khăn trắng cứ chực bay theo làn gió nổi đưa từ biển. Tôi định nói một câu gì thật nhẹ, lại thôi. Nàng lặng yên, quay người xuống cầu, tà áo lụa cuốn theo bước chân thoăn thoắt. Thoáng chốc bóng tím như biến như hiện chấp chới giữa các ngõ ngách đường đi lẩn khuất. Tôi có thể đi nhanh để bắt kịp nàng nhưng tôâi chậm lại, bỗng thấy nàng như con bướm đêm trở về giữa gạch đá ẩm đục của biển đầm để tìm một nhụy hoa đã mất. Cuối cùng nàng cũng dừng lại trước một khung cổng nhỏ, sau đó là khoảng sân vuông mù mờ dưới ánh đèn treo. Thấp thoáng bên trái có chiếc cầu thang cong lượn lên một hành lang nhìn xuống sân qua hàng cột tròn thẳng tắp. Nàng nghiêng người, tóc đã ướt sương, chìa tay cho tôi :

- Cám ơn anh.

Tôi nắm những ngón tay mềm hỏi nhỏ :

- Chúng ta sẽ gặp lại?

- Anh muốn thế?

Vuốt nhẹ bàn tay vẫn chưa rút về, tôi nói :

- Ngay từ trên sân ga.

Hai viền mắt chớp nhanh, nàng cười rồi bất chợt đằm lại, vẻ ngẫm nghĩ :

- Còn ở đây, anh hãy gặp Mélisa.

Đợi nàng bước lên cầu thang và một ô cửa sau hành lang bật sáng tôi mới quay đi. Nhắm hướng ra con kinh lớn tôi lững thững trên đường về khách sạn, lãng đãng trong đầu tự hỏi, sao nàng nhắc mãi Mélisa? Qua mấy khu phố tôi cảm tưởng cánh bướm đêm vẫn chập chờn trước mắt.

Chiều hôm sau tôi trở lại cổng sân ấy. Ánh sáng cuối ngày vừa đủ làm nổi những nét khắc chạm trên thành lan can và những cột gỗ bọc hành lang của tầng lầu. Quả chuông treo chỉ leng keng ba tiếng đã có một người đàn ông mập mạp nhố ra từ cánh cửa khuất dưới cầu thang. Ông ta mời tôi bước lên những bực gạch, vừa tới đầu hành lang đã nghe vọng tiếng vĩ cầm kéo một giòng rồi ngừng lại. Người đàn ông mở một cánh cửa đi vào, ra dấu bảo đợi. Tôi ngửng nhìn mái trần cong mà màu mè, nét vẽ hình người bay lượn trong những giải mây đã ít nhiều phai nhạt. Mélisa xuất hiện ở ngưỡng cửa với một thằng bé độ hơn mười tuổi ăn mặc tề chỉnh tay xách hộp đựng đàn. Thiếu phụ mái tóc hung đỏ màu lá thu ấy đúng là Mélisa, vì tôi nhận ra ngay ánh mắt xanh trong chế giễu ở hầm rượu. Mélisa trẻ hơn tôi nghĩ, dù bây giờ nhẹ nhàng trong bộ quần áo đơn giản vẫn cùng cái dáng đài các. Khuôn mặt phấn son kỹ lưỡng, một người từng trải và quyến rũ. Mélisa nheo mắt, cười rất tươi như thể biết rằng tôi sẽ đến. Tôi chưa kịp hỏi, Mélisa đã nói ngay bằng tiếng Pháp, giọng đùng đục, kéo dài:

- Cô ấy sang Murano xem thủy tinh, mai mới về.

Rồi không để tôi phản ứng đã tiếp :

- Nhưng anh uống rượu với tôi chứ?

Căn phòng khách rất rộng, tường xanh nhạt trên sàn gỗ nâu bóng, Ngôi nhà thật xưa nhưng cách bài trí trong căn phòng hài hoà giữa cũ và mới. Chiếc dương cầm cạnh cửa sổ treo màn trắng mỏng manh và cây vĩ cầm trên cái bàn chân cong gần đấy. Qua vòng ly trong suốt, hai con mắt Mélisa luôn luôn cười, giọng nói là lạ bây giờ quen tai trở nên ấm áp. Tôi ngà ngà trong men rượu Amazone đặc biệt ở vùng này, đỏ đậm dậy thơm và mạnh. Tôi ngây ngây trong cách nói chuyện tự nhiên đậm đà chen những tiếng cười phá lên khanh khách của Mélisa. Khi tiễn tôi ra về, dưới chân chiếc cầu thang, một nửa đã chìm trong bóng tối, Mélisa đưa tay nắm cổ áo của tôi, đôi môi đầy áp một nụ hôn đủ lâu để tôi bàng hoàng hít tất cả mùi nước hoa và thân thể ấm trong sương lạnh. Và tôi lâng lâng trở về khách sạn, hơi nồng cùng giọng cười Mélisa tràn vang trong những phố đường quanh co như thực như hư. Nhưng đến chân chiếc cầu đêm qua, bỗng một bóng áo tím tựa từ con lạch bay lên cùng tiếng hát lẳng lơ của gã chèo thuyền, tôi dừng sững hoang mang.

Hôm sau vừa ở phòng họp ra, cô tiếp tân đưa cho tờ giấy nhỏ ký tên Mélisa, hẹn tôi ra ngay bến San Marco. Đầu buổi trưa nắng rực trên tất cả thành phố. Nắng mùa đông hanh sáng những mặt nhà đầy màu sắc hai bờ kinh. Mélisa và nàng đang xếp hàng xuống vaporetto. Tôi ngỡ ngàng trước hình ảnh nàng trong tấm áo dạ đen và chiếc vali nhỏ như ở sân ga. Trong ánh sáng ban ngày nàng càng mỏng manh tựa thiếu nữ bên cạnh Mélisa cao lớn chững chạc với áo lông màu thú. Khi nhận ra tôi nàng rất ngạc nhiên, mắt mở to và đôi môi mấy máy. Mélisa lùi ra nhường chỗ. Những người lái thuyền ồn ả giục khách. Nàng nói :

- Tôi có việc bất ngờ phải về trước. Biết đâu lại gặp anh đâu đó.

rồi gật đầu ra dấu với Mélisa. Tôi không thốt được câu gì nhìn theo, nàng đến đứng ở đầu tàu, những sợi tóc ngang vai bay nhẹ. Bên kia cửa kinh rộng, nắng nhóa bạc trên hai đỉnh tròn Salute sừng sững, mắt tôi nhoà xám. Mélisa bỗng chạy băng xuống thuyền, ôm chặt vai nàng, thì thầm điều gì đó, rồi hôn lên trán, lên má thật đằm thắm và sau đó phớt nhẹ lên môi.

Tối hôm ấy tôi vào quán rượu, đi qua bao phố đêm với Mélisa, rồi cuối cùng ở lại căn phòng ngủ của nàng trông xuống vườn cây nhỏ. Thân thể Mélisa tràn đầy, mê rực, mãn khai. Nàng cuốn tôi vào trong thăm thẳm bạo vũ của rừng sâu, loài thú hoang gầm lên trong cuộc quần thảo chẳng nương tha để rồi dốc hết hơi thở, hất nhau ra, lịm đi sau cuộc chiến. Khi tôi mở mắt sáng hôm sau có tiếng chim hót rung rúc dưới mái ngói. Tia mặt trời len nhẹ qua tấm màn mở hé, chiếu vào chiếc mặt nạ nhiều màu lộng lẫy treo trên tường. Tôi bỗng nhớ tới lời Hà dặn, nỗi buồn đột chụp xuống cùng sự mệt mỏi chưa tan.

Lúc tôi đưa món quà, Hà thất vọng trông thấy. Chiếc mặt nạ đã mua trong buổi chiều trước khi rời Venise không màu mè rực rỡ. Khuôn mặt màu tím thật nhạt gần như trắng, trũng mắt vẽ hai viền tím đậm pha chút ánh lân tinh, mái tóc là vành voan xanh lung linh cài đầy hoa trắng. Lòng tôi nao nao ân hận khi Hà đem cất chiếc hộp vào tủ. Giá tôi đem về mặt nạ như của Mélisa, Hà sẽ hài lòng. Mélisa buông thả, đắm chìm và lộng lẫy đã tiễn tôi ra bến tàu. Cả hai không nói lời từ giã. Trong suốt ba ngày còn lại, đôi lần Mélisa đề cập đến nàng nhưng chỉ thoáng qua. Một buổi chiều, chúng tôi sắp sửa ra khỏi phòng khách, ông già béo mập đem lên những quần áo tiệm giặt vừa giao. Tôi và Mélisa cùng nhìn vào chiếc áo choàng tím. Mélisa cầm lấy ngay, đi về phiá cửa sổ còn hắt tia nắng cuối, giơ cao ngắm nghiá, rồi dịu nhẹ ôm sát vào người, chừng như không còn biết có tôi đứng đó. Bỗng nhiên thấy lại tấm áo nàng tôi nao nao xúc động, đồng thời cử chỉ Mélisa lại làm tôi lấn cấn lạ lùng, như lúc hai người họ chia tay ở bến thuyền. Mélisa chẳng bao giờ gọi tên nàng, chỉ là Cô ấy, Elle, Elle, tiếng kêu lạnh lùng, xa vắng nhưng cùng lúùc như chỉ định và chiếm hữu. Từ khi trở về, trong những nửa khuya chợt thức, bên cạnh Hà tôi nhớ Mélisa, nhưng dần dần đôi mắt và giọng nói dịu dàng của nàng càng ngày càng hiện rõ trong bóng tối. Dù thế, tôi chẳng gọi Mélisa, cũng không đi tìm cánh bướm tím đêm sương.

Nhưng vô tình tôi đã gặp lại nàng mấy tháng sau trong buổi tiệc nhà người bạn. Và lần này, vừa chạm mắt, chúng tôi biết rằng sẽ rơi vào tay nhau. Không thể nào khác. Thoát ra khỏi khung cảnh cổ xưa, lênh đênh biển đầm huyền ảo, hình ảnh nàng cũng đổi thay trong không gian mới. Tôi dần dần khám phá một người đàn bà hồn hậu, dịu trầm, thông minh nhưng lãng đãng. Chúng tôi chẳng gặp nhau thường. Nàng ở cách xa, và tôi còn Hà với ân tình nhiều năm. Nhưng những lần tôi đến tìm nàng nơi vùng biển tràn xám cát mịn và những vũng đầm đầy vỏ sò lấp lánh là tôi tách rời thực tại. Ngay cả ân ái với nàng cũng vô cùng khác lạ, thân thể mong manh nhưng đằm thắm da diết, mê muội đến tận cùng. Mỗi lần buông nhau ra, tôi muốn đêm say tràn ngập và ánh sáng ban ngày là điều không cần thiết. Lúc ấy nàng thả rơi chiếc gáy mảnh mai tuôn tận đáy lưng dịu dàng, ôm cánh tay tôi tìm nhịp thở. Nhiều lần, về sáng, tôi sững sờ nhìn xuống khuôn mặt nàng thiêm thiếp sự trầm lắng của mặt nạ tím mịn đã đem về. Tôi loay hoay sống giữa hai thế giới, một Hà ngăn nắp, quá thuộc từng phần thịt da và thói quen nhàm quẩn theo vòng thời gian, và nàng, mở ra cho tôi những trao đổi bén nhạy, chụp bắt sự tinh khôi ở mỗi điều trong cuộc sống. Nhưng lạ lùng giữa tôi với nàng vẫn có một khoảng cách. Sau những giờ phút chia nhau thân xác, nàng hút tôi vào hai con mắt tinh anh hiểu biết, bàn tán giải đáp mọi thứ, văn hoá, đời sống trong trêu cợt, nghịch đùa. Chúng tôi có thể nói với nhau cả những vấn đề, ưu tư trong công việc. Nhưng khoảng cách ở mỗi một điều, nàng chẳng bao giờ hỏi tôi về mảng đời riêng khi tôi rời căn nhà ven biển ấy. Lẽ đương nhiên, như thế, tôi cũng không thể đòi hỏi điều ngược lại. Phần nào đó, nó cho tôi cảm giác được phiêu bồng trong một cõi đời huyền hoặc. Tôi lơi khơi trong ảo tưởng bình yên, tránh bị trực diện hằng ngày với tấm gương mà phiá bên kia là hình ảnh Hà lúc nào cũng sẵn đó, bền bỉ im lìm, như khuôn mặt ngàn năm vẫn thế của chính tôi.

Tôi tự lừa mình trong sự yên lòng tạm bợ như vậy cho đến một buổi chiều. Hà vác ở đâu về một tấm gương cổ bảo tôi treo lên bức tường giữa hành lang. Xong Hà mở tủ lấy chiếc mặt nạ cài trên đầu gương, ngắm nghiá quay qua quay lại, gật gù :

- Kỳ nhỉ, nó giản dị thế sao bây giờ treo lên lại thu hút lạ, anh thấy thế không ?

Tôi muốn bảo, tôi thấy chứ, chỉ có Hà không nhận ra điều đó ngay từ đầu. Câu hỏi của Hà vô tình dềnh lên trong tôi nỗi gì buồn, nản. Tối ấy bước qua, ngửng nhìn, tôi giật mình, đôi mắt tím buồn theo sâu đắm. Cơn mưa đổ xuống sầm sập từ chiều, thảng thốt. Trong khi Hà ngủ mê man, hơi thở mạnh vô tư, tôi thao thức. Cứ nhắm mắt lại là tưởng chừng có tiếng áo lụa đang lướt vào phòng đem theo một mùi hương, không phải ẩm nồng của lạch nước luồn dưới chân cầu đá mà là gió biển mặn thổi về từ nơi nàng ở. Lần đầu tiên tôi nhớ nàng xa xót. Tại sao có khoảng cách. Vì sao ngoài lúc đêm tối đắm chìm trong nhau, nàng chưa từng nói yêu tôi. Nàng vùng chạy băng trên bãi cát cợn đầy dấu biển, khi tôi muốn ôm nàng trong vòng tay giữa ban ngày. Lúc dừng lại, gương mặt đột nhiên mênh mang khó tả mà tôi chỉ nhận ra được một điều là nỗi buồn. Không hiểu nàng ra sao những ngày tôi khôâng có đó. Sau gặp gỡ vội vàng, tôi quay về sống tròn trách nhiệm đời thường với Hà. Còn với nàng, vừa rời xa nhau tôi là người lạ mặt. Một tình nhân hờ hững, không xẻ chia đời sống, chẳng săn sóc âu lo. Những dằn vặt ấy được bào chữa. Có thể nàng không yêu nên chưa hề bắt tôi trải rõ lòng mình hay chọn lựa. Nàng chẳng đòi, sao tôi phải xé mình ra. Cứ tiếp tục cuộc sống trật tự bao năm khi biết mình không thể cắt đứt ràng buộc với Hà, hưởng lấy sự an lành của giờ hưu chiến. Nhưng cõi bình yên này đang ngầm cơn bão biển. Đêm nay tôi bàng hoàng nhớ đáy mắt sâu tương phản tiếng nói có lúc nhẹ hẫng như không để người nghe thấy. Làn da nàng xanh xao dưới những sợi tóc vụt cắt ngắn cũn cỡn tựa đoạn tuyệt một điều gì, không giải thích. Gió lại đập ầm ầm vào các cánh cửa. Biết đâu, nơi xa xôi kia, những đợt sóng biển đang bùng lên cuốn hút ra khơi tấm thân mong manh và tâm hồn cô đơn lạ lùng ấy. Để tôi chẳng kịp nói ra nỗi nhức đau vì ích kỷ, vô tình.

Sáu giờ sáng, máy cà phê đang ùng ục những giọt cuối cùng thì chuông điện thoại. Tôi vội nhấc lên, giật mình, Mélisa bên kia đầu giây, vẫn cái giọng khàn thấp nhưng run rẩy :

- Đến ngay đi, sợ cô ấy không qua khỏi.

Tôi ngẩn ngơ :

- Chuyện gì không qua khỏi?

Mélisa lồng lên :

- Quelle question, còn hỏi! Cô ấy bệnh nặng bao năm, chẳng lẽ anh không biết.

Tôi muốn gục xuống, thẫn thờ :

- Nàng có nói gì đâu.

Tiếng Mélisa đầy phẫn nộ và nước mắt :

- Ngụy biện. Bất nhân. Tôi cứ đinh ninh anh giúp nàng sống vui những ngày còn lại. Sau mặt nạ chẳng nói làm gì, cô ấy để trần, anh có nhìn chăng mà không thấy ?

Dựa vào thành bồn rửa chén, chiếc điện thoại tít tít trong tay, đầu óc tôi choáng váng. Mélisa đã gác máy tự lúc nào. Mélisa đột nhiên từ quá khứ hiện ra sừng sững như vị thần khoác áo vàng tươi, tay giơ búa tạ. Bấy lâu nay, thảng hoặc vô tình nhắc tới người đàn bà mê hoặc này nàng thường phớt nhanh với nụ cười bí ẩn, như thể liên hệ giữa họ là cõi riêng chẳng thể chia sẻ. Tôi thắc mắc nhưng cũng không muốn nói đến Mélisa. Những đêm rượu hầm và hơi thở hực nồng gấp rút trong căn phòng nhìn xuống sân vườn quyến rũ ấy là vùng sương mù mà tôi cố tình chối từ ám ảnh.

Hà bị đánh thức, ngái ngủ bước ra, càu nhàu :

- Ai gọi gì sáng sớm ?

Tôi vội nói, tôi phải đi đây. Hà mở to mắt ngạc nhiên, lắc đầu. Điều gì tôi có can đảm nói ra với Hà, với Mélisa, và với nàng bây giờ, đều đã muộn.

tháng ba 2000

(Les Siciliens, Caen-Paris-Québec)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn