Gà mới vừa gáy chập hai là má tôi đã thức dậy lo nấu
cơm và hâm lại đồ ăn đã làm sẵn chiều qua đặng ba
tôi ăn sáng, lót lòng cho vững bụng. Nghe tiếng động,
tôi cũng giựt mình thức dậy. Sau khi đánh răng sơ sịa,
tôi lót tót xuống bếp để phụ với má tôi. Bà đang lui
cui dọn thức ăn lên bàn. Thấy mặt tôi bà liền sai:
- Con đem bình trà súc cho sạch, bỏ trà mới rồi châm đầy
nước ba con uống sau khi ăn cơm xong.
Ba tôi thích uống trà hiệu "Thiết Quan Âm," vì trà này có
cái mùi dìu dịu, không nồng như trà "Ô Long." Tôi vừa
làm vừa hỏi:
- Bộ bữa nay ba có công chuyện phải đi đâu đó hả má?
- Con không biết à? Ba bây sửa soạn đi dọ chỗ! Bộ con
không nhớ mỗi năm cứ đến mùa nầy là ba con tìm chỗ
để dưỡng trâu. Năm nào cũng vậy mà bây còn hỏi lôi
thôi!
Hai má con đang nói với nhau, thì có tiếng tằng hắng của
ba tôi từ nhà trên bước xuống:
- Má con bây nói gì đó, cơm nước đã xong chưa? Còn
thằng Be giờ này mà nó chưa tới hả?
Vừa nhắc tới nó, thì ngoài ngõ có tiếng của hai con Mực
và con Vện sủa ỏm tỏi. Tiếng thằng Be la hai con chó ngoài
sân:
- Hai con chó mắc dịch này, bộ tao lạ lắm sao mà hai đứa
bây sủa dữ vậy?
Tôi bước ra ngoài hàng ba nhìn sự tình thử coi ra sao. Be
vừa đi vừa né con Mực, con Vện. Nhưng hai con chó như đã
đánh mùi người quen bèn chạy ra quấn quít bên chân nó và
liếm lia lịa vào người. Thỉnh thoảng nhảy chồm lên ngực
nó như để giả lả sự hiểu lầm vừa qua. Be chợt nhìn
thấy tôi, liền lên tiếng:
- Chị Lựu đang làm gì mà đứng đó?
- Chị nghe tiếng chó sủa, không biết chắc là em hay người
khác, nên chạy ra định la hai con chó cho nó im vậy mà. Thôi
đi vào nhà mau lên đi, để còn ăn cơm xong là lên đường
ngay với ba chị. Nãy giờ ông đang trông em dữ lắm đó.
Bước vào nhà Be tươi cười, lễ độ thưa ba má tôi và
có vài lời phân trần vì lỡ ngủ quên. Ba má tôi không
màng để ý đến điều đó cho lắm vì biết nó tuổi
còn nhỏ, "ăn chưa no, lo chưa tới." Vả lại Be phải sống
xa gia đình, không có sự dạy dỗ của cha mẹ. Phải đi
chăn trâu vất vả suốt ngày. Tuổi mười hai, mười ba,
theo như con nhà khá giả, thì thế nào cũng được cấp
sách đến trường, ăn học đàng hoàng. Không riêng vì ba
má tôi mà ngay cả chị em tôi cũng thương nó và đối xử
với nó như chị em trong nhà. Cứ mỗi lần gần đến
Tết, lúc má tôi mua vải may đồ mới cho chị em tôi, bà
cũng mua cho Be một phần riêng. Cùng một ít quà Tết cho
gia đình của nó. Đời sống của Be thiếu thốn về vật
chất lẫn tinh thần. Điểm cốt yếu là dù nhà nghèo
nhưng tính tình Be rất dễ mến, có trách nhiệm và bổn
phận trong công việc. Mỗi khi ba tôi giao phó cho nó, việc
nào cũng trôi chảy, hoàn tất chu đáo.
Ba tôi hối thúc nó ngồi vào bàn ăn:
- Be à, chú cháu mình làm lẹ lên để còn đi sớm về sớm
mậy. Không thôi lụi hụi đến chiều tối về không kịp à
nghen. Chú cháu mình còn nhiều việc phải làm trên đó.
Nghe ba tôi nói, Be dạ... dạ hai ba lần, rồi ân cần tiếp
lời:
- Chú nói nhiều việc mà làm con nôn quá, tưởng như mình
đi đình đám, hay hội họp gì lớn lắm.
Ăn xong ba tôi qua ngồi bên bàn tròn cạnh đó. Ông rót chung
trà nóng uống từng hớp một, để thưởng thức hương trà
thơm ngát, bốc khói nghi ngút. Rồi ông vấn điếu thuốc
đặt lên môi, quẹt hộp quẹt mồi lửa, mấp mấp vài hơi,
nhả làn khói xanh, phảng phất quyện trên không trung mờ ảo.
Thói quen của Be là ăn xong thì đi thẳng lên hàng mái nước
mưa để nốc một gáo cho đã khát. Mấy cái mái chứa
nước bằng sành to lớn được ba tôi kê theo thứ tự ở
hiên nhà trên. Cái gáo múc nước làm bằng cái gáo dừa
khô, cạo gọt thật láng. Cán gáo được tra vào hai cái lỗ
nhỏ khoét ở hai bên cái gáo dừa, dài độ hai gang tay. Cái
gáo này lúc nào cũng được máng sẵn ở trên góc cột cạnh
mấy mái nước. Tôi còn nghe tiếng nước đổ tạt cái ào
ra ngoài sân nhà. Có lẽ Be uống không hết vì múc một gáo
đầy vung. Rồi nó lại giựt mình, bẽn lẽn vì sợ bị la
vì cái tật uống phân nửa đổ phân nửa. Má tôi hay nói:
"Mai mốt rủi nắng hạn không có mưa thì phải uống nước
lóng phèn xách từ dưới mương lên." Be muốn né tránh
sự bắt gặp đó nên đã vội vã trở lại bàn thưa với
ba tôi:
- Con xong xuôi rồi chú, mình lên đường được chưa?
Ba tôi nói:
- Đi bây giờ là đúng lúc rồi đó. Bữa nay coi bộ trời
tốt lắm.
Má tôi còn nói vói theo với ba tôi và thằng Be:
- Hai chú cháu bây đi đường nhớ cẩn thận, chiều về
sớm sớm để ở nhà khỏi trông nghen.
- Bà khỏi phải lo gì cả, chiều nay không thấy tôi với
thằng Be về là bà biết liền.
Ba tôi đùa cho vui, chớ ổng biết chắc dù sớm hay muộn
gì ổng cũng phải về trong ngày.
Vừa nói xong ba tôi với thằng Be liền bước nhanh ra
đường và không mấy chốc khuất bóng bên kia đầu cầu
của con rạch. Giòng nước dưới cầu chảy chầm chậm,
thiệt trong, không một chút pha lẫn bùn non. Tôi lui cui
thu dẹp chén đũa vào cái rổ rồi bưng thẳng ra phía sau
nhà. Tôi để cái rổ trên sàn phơi chén đũa cất cạnh
chiếc cầu dừa bắt ngầm xuống mương, rồi từ từ lôi
ra rửa từng cái một. Ánh bình minh hôm nay sao mà ửng
hồng, thật đẹp. Tuy tay tôi vẫn rửa, nhưng cặp mắt
tôi thì lại nhìn quanh quẩn đó đây. Những hàng dừa,
hàng cau rũ bóng qua đêm đã bắt đầu tươi mát đón
chào nắng ấm, lung linh. Tiếng chim sáo, chìa vôi pha lẫn
với tiếng vịt, gà đang rời chuồng để đi kiếm ăn.
Tất cả những âm thanh ấy đã tạo nên một niềm vui chan
hòa, rực rỡ với nếp sống dung dị của những người
dân nơi miền thôn dã. Bỗng, bên kia bờ dừa có tiếng
kêu giựt
ngược của con nhỏ bạn:
- Lựu ơi, tới giờ đi học rồi mà sao mầy còn ngồi đó
hả? Mầy không lẹ lên tao đi trước à nghen.
Tôi giựt mình mới hay là nãy giờ quên mất chuyện đi
học buổi sáng nay. Hết mãi mê chuyện trời mây trăng gió,
tôi bèn nói vọng qua bên kia bờ:
- Mầy chờ tao một chút nghen Sương. Tao đem rổ chén nầy
úp vào sóng chén là tao đi liền.
Má tôi nghe tiếng hai đứa tôi ngoài sau vườn. Bà giục:
- Lẹ lên để không thôi trễ học à con! Còn phải đi ba
bốn cây số, rồi lại phải qua đò ngang mà sao con ở đó
chần chờ hoài vậy. Cơm, đồ ăn má đã đựng sẵn trong
chiếc gào-mên hai ngăn đàng hoàng rồi đó.
Tôi chẳng thèm mở ra để mắt nhìn vô coi là món gì,
nhưng cũng đoán chắc là canh chuối nấu dừa với lại tép
rang mỡ. Vì ba tôi với thằng Be đã vừa ăn những món
này trước đó. Một tay tôi với lấy chiếc gào-mên và
tay kia ôm chiếc cặp đệm, miệng thì nói:
- Thưa má, con đi học.
Má tôi chẳng trả lời trả vốn và tôi vội bước nhanh ra
sau nhà. Nãy giờ chắc con Sương đang chờ mỏi chân. Bỗng
dưng má tôi nói vọng theo:
- Đừng hấp tấp mà làm đổ hết gào-mên cơm bây giờ,
trưa nay không có một hột mà ăn nha con.
Để quên hết đường dài, Sương và tôi vừa đi vừa
chuyện trò qua lại. Tôi nói:
- Hôm nay ba tao với thằng Be đi dọ mối, có lẽ lên tuốt
miệt Lộ Ngang để tìm chỗ cho trâu ăn. Mầy biết, sau
mùa lúa là đồng ruộng khô khan, không còn cỏ non cho nên
ba tao sợ trâu ốm đi nên phải tìm chỗ nào có cỏ.
Cái tên Lộ Ngang có lẽ Sương chỉ nghe qua chớ nào có biết
ở đâu, cách làng bao xa. Sương bèn hỏi lại tôi:
- Nè Lựu, mầy có lần nào đi tới Lộ Ngang chưa? Bộ
mầy có bà con quen biết gì ở đó hả?
- Tao chỉ đi qua đó mỗi một lần lúc về thăm quê ngoại
tao ở trên Phú An Hòa. Phải đi tới Lộ Ngang rồi mới
đến Phú An Hòa. Tao không có bà con ở nơi ấy, bên ba
tao không mà bên má tao hình như cũng không. Con Sương
mầy dở quá, đây với đó chẳng xa lắm, mà mầy thiệt
chưa biết hay sao?
Đối với tôi, Sương là đứa bạn hiền lành, chân thật.
Gia đình ba má nó cũng tạm đủ ăn, đủ mặc chứ không giàu
có dư giã gì. Thành thử Sương ít có cơ hội đi đây, đi
đó như tôi. Có một đứa bạn như Sương tôi rất thích,
vì ngoài tình bạn chúng tôi còn có tình láng giềng thân
thiết nữa. Nhiều lúc nó hay chịu khó đến rủ tôi đi câu
cá bống dừa, đi tát mương, hay bắt ốc quắn ngoài con
rạch trước của nhà. Có lúc nó phụ tôi đi đốn chuối,
chĩa dừa rụng hoặc kéo tàu dừa từ dưới mương lên bờ
phơi khô. Thường thường nếu nó làm nhiều việc như
vậy, má tôi cũng cho nó tiền chút đỉnh để nó ăn hàng,
ăn bánh vào những buổi trưa ở lại trường.
Hai đứa mãi nói chuyện mà con đường đã rút ngắn lại
hồi nào không hay. Lụi hụi đã tới bến đò, hai đứa
ngồi dựa gốc cây bàng để chờ đò sang sông. Sương
gạn hỏi:
- Lựu, mầy biết chừng nào bác trai về không? Nếu mà
bác đi hai ba ngày mới về thì tao với mầy đi đặt vó.
Có bác trai ở nhà tao sợ ổng lắm, bác gái thì dễ rồi.
- Nghe đâu chiều nay ổng với thằng Be sẽ về, sớm hay
muộn thì tao hổng biết. Hay là để vài hôm nữa ba tao
dẫn trâu đi rồi tao với mầy sẽ đi vó cũng không muộn.
Con nhỏ Sương nghe tôi nói như vậy thì nó thích lắm. Vì
mỗi lần ba tôi dẫn trâu đi ăn cỏ trên Lộ Ngang ít nhứt
cũng hai, ba tuần mới trở về. Sương ngán ba tôi vì tính
ổng nghiêm nghị, ít nói. Tôi nói tiếp:
- Sao mầy ngán ba tao quá vậy Sương? Tao nghĩ ba đứa nào
cũng vậy, thường thường ba ít nói hơn má, nhưng mà mình
sợ ba nhiều hơn má. Mầy có nghĩ như tao không?
Điều con Sương cũng vui mừng nữa là vì hai đứa được
tự do làm đủ thứ bánh như bánh cam, bánh còng, bánh lọt,
bánh bèo, bánh tàn ong, bánh đúc, v.v. Nó thích làm bánh
lắm. Làm xong nó lại chịu khó dọn dẹp sạch sẽ, đàng
hoàng. Ít khi nó dám rủ tôi đến nhà, vì cái mặc cảm
của đứa con nhà nghèo. Tôi hiểu tánh Sương, cho nên tôi
ít khi bàn đến chuyện tới nhà nó chơi.
Đò cặp bến. Chờ cho khách hàng lên đò xong mới tới
phiên học trò, Sương và tôi liền bước xuống tức thì,
giành hai chỗ ngồi gần trước mũi. Chỗ này tiện nhứt
vì khi sang bên kia bến, chỉ cần bước vài bước là rời
khỏi đò. Không mất nhiều thì giờ như ngồi ở gần phía
sau lái. Bác chèo đò chèo thật khoan thai. Giòng nước
chảy xuôi nhẹ nhàng, không làm chao động. Những chiếc
xuồng tam bản hay ghe thương hồ xuôi ngược qua lại trên
sông vào buổi sáng thật nhộn nhịp, huyên náo. Không mấy
chốc, đò đã ghé vào bờ dễ dàng, gọn ghẽ. Sương và
tôi vội vã bước mau lên bến trong tiếng trống nhà
trường vang lên liên hồi. Hai đứa cắm đầu, cắm
cổ chạy cho kịp sắp hàng vào lớp. Bao nhiêu chuyện hai
đứa đã dự định đều gác lại vào buổi tan học về.
Những buổi chiều chờ đò qua sông, tôi thường rủ Sương
và một vài đứa bạn trang lứa chơi đánh đũa với nhau.
Có bữa ham chơi quên mất luôn mấy chuyến đò liên tiếp,
cứ phải chờ chuyến kế. Lắm lúc về tới nhà, nhà đã
lên đèn. Có lần má tôi hỏi:
- Tại sao bữa nay mầy về nhà tối vậy?
Tôi liền biện hộ:
- Tại bữa nay đám học trò con trai tụi nó chen lấn dữ
quá con không giành với tụi nó được. Cho nên con phải
ở chờ chuyến đò chót, thành thử mới trễ như vầy.
Cũng có lúc tôi cảm thấy mình có lỗi với cha mẹ về
tội nói dối. Nhưng chỉ vì tuổi ấu thơ còn vướng
bận ham chơi, ai mà không qua cái tâm trạng như tôi ở
cái thời hỉ mũi chưa sạch. Trong suốt buổi học ngày
đó tôi trông sao cho thì giờ qua nhanh để tới giờ tan
học. Mong rằng ba tôi sẽ có quà hay một vài món ăn lạ
mang về từ những địa phương mà ông vừa đặt chân
đến. Đang suy nghĩ thì bỗng dưng tiếng trống nhà
trường đổ liên hồi. Tôi vội vàng thu xếp tập vở,
bút mực bỏ vào cái cặp đệm có hai ngăn xếp lại, cũng
không quên xách chiếc gào-mên nhẹ hửng trên tay. Giờ
tan học thì khỏi phải xếp hàng theo thứ tự như buổi
sáng. Học trò chỉ chờ cho thầy giáo ra hiệu và dặn
dò bài vở ngày mai, sau đó thì mạnh đứa nào nấy dông
ra ngoài.
Như thường lệ tôi có thói quen hay chơi đánh đũa cùng
với mấy con nhỏ bạn trong khi chờ đò, nhưng chiều hôm
nay tôi lại làm lơ, chỉ mong sao về cho sớm tới nhà để
mừng ba tôi. Con Sương ghé vào tai tôi hỏi nhỏ:
- Mầy làm gì mà ra vẻ hối hả vậy hả Lựu?
Tôi nguýt háy Sương một cái rồi nói qua loa:
- Mầy còn làm bộ ngây thơ nữa hả Sương! Chớ hồi ban
sáng này tao đã nói với mầy cái gì? Chuyện ba tao sẽ
về chiều nay mầy nhớ không?
Sương giẫy nẫy:
- Hứ, tao tưởng chuyện gì quan trọng chớ chuyện bác trai
đi lên Lộ Ngang về thì có gì đâu mà mầy làm dữ vậy.
Mầy làm như ổng đi Tây không bằng.
Con nhỏ Sương nói cũng đúng! Nhưng mà nó đâu có hiểu
được tâm trạng tôi lúc đó! Vì trong một dịp về Phú
An Hòa thăm Ngoại trước đây, cậu Mười tôi có nói qua
chuyện Lộ Ngang, chuyện đời xửa, đời xưa... liêu trai
chí dị. Sự hiếu kỳ của trẻ con lúc nào cũng sẵn có,
như tôi đây chẳng hạn. Sau khi lên khỏi đò, đi bộ dọc
theo đường làng một hồi lâu tôi chẳng thèm nói với con
nhỏ Sương một lời. Sự im lặng này đã làm cho nó khó
chịu, bèn lên tiếng:
- Mầy giận tao hả Lựu? Mấy điều tao nói vừa rồi chỉ
để chọc mầy cho vui vậy thôi chớ có gì đâu mà mầy
giận! Mà nếu tao làm mầy buồn thì cho tao xin lỗi nghen,
chịu chưa?
Tôi bật cười, đáp lại:
- Tao có giận gì mầy đâu! Chẳng qua tao nhớ một chuyện
lạ ghê lắm mà tao muốn nói cho mầy nghe. Mà thôi, để
ngày mai hẵng hay, vì chuyện đó có vẻ trùng hợp với
chuyến đi của ba tao trong ngày hôm nay. Rất ly kỳ và rùng
rợn, mầy ơi!
Mới sơ sơ mấy lời, Sương đã lấy làm thích thú và hối
thúc tôi phải kể liền cho nó nghe. Nhưng tôi làm bộ không
để ý tới mấy lời hối thúc đó mà bắt sang chuyện khác
hỏi lại Sương:
- À, mầy có nghe thím bảy đầu xóm trên hay hát đưa con như
thế nào không Sương?
- Ối, ai mà để ý đến mấy chuyện lẩm cẩm đó!
- Giỡn hoài! Bả hay hát: "Ví dầu, ví dẩu, ví dâu; ví
qua, ví lại, ví trâu vô chuồng."
- Trời đất, câu đó tao nghe hát hà rầm, có gì lạ đâu
mà mầy hỏi?
- Không phải vậy! Chỉ có thím bảy hát câu đó tao mới nghe
nó buồn buồn làm sao á! Nhứt là lúc trời sắp tối như
vầy!
Một ngày ở miền quê trôi qua sao mà thiệt mau. Những tia
nắng chói chang mới đó đã trở nên vàng vọt yếu ớt, còn
lập lòe sót lại trên cành cây ngọn cỏ và hàng dừa xanh rũ
bóng nghiêng nghiêng. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ thổi
qua, phảng phất hương quê ruộng vườn đó đây. Không khí
thiệt trong lành, tôi hít một hơi dài, lâng lâng sảng khoái.
Lũ trẻ con trong xóm đang thi nhau đùa giỡn, vui vẻ trầm mình
dưới lòng nước mát của con rạch bên đường. Cảnh chiều
quê thiệt là êm đềm, thanh thản.
Gần tới ngã rẽ vào nhà tôi, Sương dừng lại nói:
- Thôi tao về, sáng mai tao với mầy đi học sớm hơn một
chút nghen Lựu! Tao muốn nghe mầy kể chuyện về chuyến
đi của ba mầy!
- Ừa, về đi con quỷ! Ham nghe chuyện ma dữ ha!
Tôi lấy tay đẩy nhẹ lên cái nón lá của Sương, con nhỏ bất
cẩn bị chúi nhủi, quay mòng mòng mấy vòng mới gượng lại
được. Tôi chạy một hơi vào trong nhà với nỗi bực tức
của Sương. Tai tôi còn nghe tiếng càu nhàu:
- Ngày mai mầy sẽ biết tay tao nghen Lựu!
Vừa bước vô cửa sau, tôi gặp má đang lặt rau ngò và quế
chắc để nêm canh chua. Bà nhìn tôi, hỏi:
- Sao mà mặt mày con đỏ lơ đỏ lửng vậy? Chắc là chạy
giỡn với con Sương trên đường về nữa rồi phải không?
Tôi lặng thinh, cười mỉm rồi đi về phía sàn nước. Đặt
cái gào-mên lên giàn phơi chén xong, tôi đi một mạch lên nhà
trên. Sau khi để tập vở ở trên ngăn tủ, tôi trở vô phòng
thay đồ. Rồi mới chạy đi rửa mặt, rửa tay sạch sẽ để
còn xuống nhà bếp phụ dọn cơm với má tôi. Chị hai của tôi
đã đi học ở tỉnh, giờ tôi là đứa lớn nhứt. Mọi việc
lặt vặt trong nhà tôi phải lo. Mấy đứa em tôi hãy còn nhỏ,
ba má chưa nhờ cậy gì được. Không thấy ba tôi đâu cả,
tôi hỏi má:
- Ba về chưa hả má? Con không thấy ổng ở đâu hết?
- Ba mầy với thằng Be về rồi! Chắc ổng với nó đang lo
thả mấy con trâu ra ăn rơm. Suốt ngày nay bị cột ở một
chỗ chắc là giò cẳng rũ riệt hết rồi!
- Tối nay mình ăn cơm với gì vậy má?
- Canh chua tép nấu với lá me và bông sua đũa tím. Cá lóc
muối sả ớt chiên. Với lại đậu đũa xào với thịt ba rọi.
Bông sua đũa tím? Tôi rất đổi ngạc nhiên vì từ hồi nào
tới giờ tôi chỉ thấy có bông sua đũa trắng! Má tôi hối:
- Tối rồi, lên đốt đèn nhà trên đi con! Nhớ thắp nhang
các bàn thờ cho má. Hồi chiều ba con về có mang mấy trái
đu đủ tím Đà Lạt của chú Năm Bổn gởi cho, má đã rửa
sạch cúng trên bàn thờ ông bà. Chú còn gởi thêm một giỏ
lớn bông sua đũa tím cho má nữa đây. Tao nấu canh chua một
mớ, còn một mớ để dành ngày may luộc chấm với cá bống
kho tiêu.
Sau khi làm xong mấy việc má đã dặn, tôi bèn trở xuống
bếp và đi thẳng ngay bộ vạt, nơi có rổ bông sua đũa còn
dư. Tôi mân mê lấy từng cái từng cái bông màu hoa cà
tím lợt thiệt đẹp. Trông rất lạ mắt, trên đầu bông
sua đũa có cái cuống màu xanh lá cây, phần còn lại chỉ
có một màu tim tím xinh xinh. Những cái bông ấy đã cuốn
hút cặp mắt tôi một cách thú vị làm tôi không còn để
ý gì tới việc mình phải làm phụ với má. Chợt má tôi
nói vọng lại:
- Chuyện má biểu con làm đã xong chưa? Nếu rồi thì con
lo xếp chén đũa lên bàn đi, đặng má múc đồ ăn đem
lên sau. Sẵn đây nghe má dặn thêm công việc ngày mai
luôn thể! Ngày mai là ngày thứ bảy, con đi học chỉ có
nửa buổi và nhớ lúc trưa phải chạy về nhà thiệt sớm
đặng đi rọc cho má một mớ lá chuối hột. Ngày mốt má
sẽ gói vài đòn bánh tét với lại bánh ú cho ba con mang theo
lên Lộ Ngang ăn trở bữa. Ba con định ngày 22 hay 23, đợi
cho nước thiệt kém thì khởi hành. Có như vậy trâu mới
dễ dàng lội qua sông mà không bị đuối sức.
- Con nhớ rồi, má đừng lo! Con sẽ rủ con Sương phụ với
con một tay cho lẹ.
Một hồi lâu ba tôi với thằng Be về tới. Tiếng chân
trâu nghe mỗi lúc một gần thêm. Trong giây lát, ba tôi
với thằng Be bước vô nhà. Tôi mừng rỡ, vui vẻ lên
tiếng trước:
- Bữa nay ba đi lên đó công việc có xong không hả ba? Má
với con trông hoài không biết ba có gặp chuyện gì trắc
trở hay không!
Ba tôi nói với sự hài lòng:
- Bữa nay hên lắm! Chuyện gì cũng may mắn, tốt đẹp
cả. Chú Năm Bổn đã hứa cho ba gởi nhờ mấy con trâu
của mình, tá túc ở chuồng trâu của chú. Chú Năm bây
tiếp đãi thiệt là tử tế, thành thực. Khó kiếm được
người tốt như vậy. Ba với chú uống nước trà, ăn
kẹo đậu phọng, nói chuyện suốt buổi trưa, nói hoài
không hết chuyện. Chú kể lại lai lịch và tại sao chú
phải dời nhà ra sát mé đồng để làm ruộng sanh sống.
Chuyện dài lắm để ba đi tắm rửa sạch sẽ cái đã,
rồi khi ăn cơm xong ba sẽ kể tiếp cho nghe...
Kế, ba tôi quay sang thằng Be:
- Nè Be, mầy cũng lo đi tắm đi chớ? Ra ngoài trước
cái đìa kia mà làm một dác cho mát mẻ! Cả buổi trưa
này mầy hết leo lên mấy cây sua đũa để hái bông thì
lại đi theo lũ chăn trâu trên đó hớt cá lia thia tàu,
rồi hết màn lia thia tàu thì lại chơi đánh trỏng... tao
coi bộ mầy nhập bọn với đám đó cũng mau! Thôi đi
tắm lẹ lẹ lên, đặng còn ăn cơm nữa chớ mậy...
Bữa cơm chiều ngày đó thật ngon miệng vì có món canh
chua bông sua đũa. Vả lại ai nấy đều đang đói bụng,
cho nên không mấy chốc... có người buông đũa. Đối
với gia đình tôi, thời gian sau bữa cơm tối rất quan
trọng. Mọi chuyện xảy ra trong ngày ba tôi thường hay để
dành đến lúc sum vầy, yên ấm này mới bàn thảo với
gia đình. Vì vậy, sau khi má tôi dọn thức ăn thừa
xuống nhà bếp, ba tôi vừa uống trà vừa từ tốn kể
chuyện:
- Các con biết hôn, con đường lộ đá từ bến đò An
Hóa trở lên ngã tư Trúc Giang hai bên toàn là ruộng, mênh
mông cò bay thẳng cánh. Đi hết dãy ruộng đó thì mới
tới vườn dừa, bao la ngút ngàn, trùng trùng điệp điệp.
Dọc theo phía bên phải từ xã Giao Hòa, Giao Long, Lộ Mộ
Điệu, đến Phú Thành, Quới Sơn Tây và đụng ngã tư
Trúc Giang ném về xã Tân Thạch. Vùng đất này hơi cao
cho nên người ta gọi là ruộng gò, dân ở đây làm mùa
cũng có phần vất vả và cực nhọc. Nếu vào những năm
nắng hạn, họ phải dẫn thủy nhập điền mới có đủ nước
cung cấp cho lúa tốt tươi. Rồi đến phía bên trái cũng
vậy, bắt đầu từ bến bắc Cột Dây Thép đi ngược
lên phía Lộ Thầy Cai, Lộ Ông Hổ, Lộ Song Phước, Lộ
Ngang, rồi đến Phú An Hòa tức là giáp mí với ngã tư
Trúc Giang. Những vùng đất bên trái này có chỗ thấp
xuống như hai nơi Song Phước và Lộ Ngang, nên ở đây
người ta gọi là ruộng trũng. Hai chỗ này đôi khi dân
làm ruộng phải dùng lúa xạ. Kể cũng rất trở ngại vì
nước ngập quanh năm. Lâu ngày chầy tháng ruộng trở
thành "bưng hay đầm," lác hoặc cỏ ống mọc quá nhiều.
Chính vì vậy mà có nhiều thửa ruộng bị bỏ hoang. Trong
đó có những hào lãng bông súng, bông sen mọc chi chít với
nhau, xen lẫn với rau mác, rau dừa, lá hẹ, bông điên điển.
Thỉnh thoảng có những đàn cò trắng bay lượn bắt cá,
bắt tôm hoặc buồn tình đậu trên lưng trâu đang ung
dung nhai cỏ. Hình ảnh quê hương mình thật yên ấm, hữu
tình có phải vậy không mấy đứa bây, má mầy?
Đang vui vẻ thì bỗng nhiên giọng ba tôi lại trầm buồn:
- Tiện đây có một chuyện mà ba muốn chia sẻ với gia
đình. Trong ngày hôm nay chú Năm Bổn đã tâm sự cùng ba
về cuộc đời của chú. Vì sao mà chú phải dời nhà ra
gần ruộng để ở. Chuyện đó như vầy... Khi chú còn
trai trẻ thì đất nước mình đang bị người Pháp cai trị.
Trong lúc loạn lạc chú bị bắt đi lính viễn chinh cho Tây
một thời gian. Trông người chú rất lực lưỡng, khỏe
mạnh, cho nên ít ai dám đụng tới hay gây chuyện đến gia
đình chú. Tuy nhiên, sau đó khi đất nước yên bình trở
lại, chú muốn trở về quê cũ cất nhà sinh sống với
vợ con trên phần đất hương hỏa của ông bà để lại.
Ngôi nhà này cách xa với cái nhà hiện chú ở khoảng
3 cây số, cũng ở Lộ Ngang nhưng sâu tận trong vườn.
Theo như ba đã hiểu và nghe bạn bè kể lại trong lúc chánh
quyền Pháp đô hộ, dân Việt ta đã trải qua những ngày
sống trong kinh hoàng sợ hãi. Họ tàn nhẫn và hung hăng
giết chóc không gớm tay. Biết bao nhiêu người dân vô
tội bị chúng bắt được khi đi ruồng bố là chúng đem
chặt đầu hay bắn bỏ tại Lộ Ngang ngay. Khi con người
chưa tới căn phần mà bị chết tức tưởi như vậy,
linh hồn của họ khó mà siêu thoát. Ba còn nhớ lúc anh
hai Xe Ngựa chạy xe từ con đường An Hóa đi Rạch Miễu,
một đôi lần ảnh có nói, vào lúc chạng vạng tối của
chuyến xe cuối cùng trong ngày, ảnh đã gặp một thiếu
nữ rất xinh đẹp ra đứng đón xe. Ảnh phải ngừng lại
rước. Xe chạy độ một khoảng đường thì anh quay lưng
lại xem chừng thì không thấy thiếu nữ đó trên xe nữa.
Nếu như người nào có máu dê, tỏ mòi trêu ghẹo thì chắc
sẽ bị cô ấy hốt hồn ngay...
Nghe đến đây tôi bắt đầu ơn ớn, lén rút hai cái chân
gác lên mặt ghế đẫu. Thằng Be hình như hiểu được cử
chỉ yếu bóng vía của tôi, nó liền làm bộ tằng hắn rồi
nhìn tôi cười tủm tỉm. Mặc dù sợ ma nhưng vẫn thích nghe
chuyện ma. Từ nãy giờ má tôi vẫn im lặng, nhưng đột
nhiên bà lại lên tiếng:
- Ba mầy nói tiếp chuyện chú Năm Bổn đi chớ? Tao muốn
biết coi vì sao mà chú lại dọn nhà đi chỗ khác.
Ba tôi tiếp:
- Sau khi chú về sanh sống tại đó, một nơi hẻo lánh xa xôi
không được bao lâu thì chuyện chẳng may lại xảy ra cho gia
đình chú. Một hôm chú đi đổ nò cách nhà chừng vài
trăm thước. Cái nò của chú nằm gần ngọn con rạch. Công
việc làm ra cái nò là cả một nghệ thuật của người dân
quê để chận cá, bắt tôm trong mương rạch. Muốn có cái
nò, người ta phải dùng tre chẻ ra từng miếng, vuốt tròn lại
như chiếc đũa dài, độ một thước rưỡi hơn. Sau đó dùng
dây lạc dừa hoặc dây kẽm bện lại thành một cái bầu hình
tròn, một đầu tóp lại và một đầu có chừa cái hom dài
độ một gang tay. Với cái hom nầy, cá tép vô được mà ra
không được. Hai bên bờ rạch được dùng cây trúc hay cây
tre chẻ ra cũng bện lại thành tấm vạt, rồi căng ra từ bờ
rạch cho tới giáp mí nò. Ở đó họ đặt hai cái trụ làm
bằng thân cây cau cắt ra. Công việc quan trọng là chờ mỗi
khi nước lớn chảy vào mương rạch, thì phải giở nò lên cho
cá tôm tự do ra vào. Đợi đến khi nước đứng mới hạ nò
xuống...
Tới đây ba tôi ngưng lại mấy giây để châm thêm nước
sôi vào bình trà lớn, rồi ông rót ra cái tách nhỏ đưa lên
miệng uống ực một cái ngon lành. Đoạn ông kể tiếp:
- Như thường lệ chú đi đổ nò vào buổi trưa, nhưng bữa
nay con nước lùi lại cho tới khuya mới cạn. Vì vậy chú
phải chờ vào nửa đêm. Trong lúc vợ con chú an giấc thì
chú lo lấy mấy món đồ cần dùng mang theo để đi ra đổ
nò. Chẳng hạn như đèn khí đá, cái rổ xúc, cái đục,
con dao mác lưỡi dài và nhọn, cán chừng 2 gang tay hơn. Cái
rổ xúc lớn dùng để đổ cá, tép vô đó trước, rồi sau
đó mới trút vô cái đục, đậy nắp lại. Chú đang lững
thững đi cũng gần tới chỗ đổ nò, ngang qua mấy lùm
chuối Xiêm, bỗng dưng từ đâu đó có luồng gió lạnh
thổi qua. Tưởng như trời sắp giông mưa tới nơi, chú
hối hả chạy xuống rạch để làm xong công việc, đặng
có mà về sớm trước khi trời rớt hột. Đang lom khom
nhắc cái nò lên, thì ngọn đèn máng bên cành cây quau...
"phụt" một cái tắt ngủm. Chú lật đật mò vào túi áo
tìm cái hộp quẹt để quẹt lửa đốt lại cái đèn, nhưng
không ngờ từ phía đàng sau lưng chú, hình như có bóng
người nào đó xô chú thật mạnh. Chú bị văng tuốt luốt
qua bên kia bờ rạch, nghĩ thầm chắc có ăn trộm đánh
lén chú để giựt cá tép gì đây! Chú lấy lại bình
tỉnh, chủi thề: "Đồ cái thứ chó đẻ tụi bây! Quân
nào ngon ra đây tao đánh chết cha nó cho coi! " Chú lồm
cồm đứng dậy rồi quay lưng lại tìm chỗ trống để
lội qua bên kia bờ. Cái hộp quẹt lúc nãy đã lọt đâu
mất tiêu dưới bùn, chú tìm hoài không thấy. Khi chú
trở lại làm công việc như cũ thì bị bồi tiếp thêm
một chập nữa. Cái gì kỳ cục vậy? Chú lại tìm đường
lội qua rạch! Cuối cùng rồi chú cũng đổ được cái
nò, trút cá tép vô cái đục, hối hả đi mau về nhà.
Cũng trên con đường mòn quen thuộc trong vườn đó, nhưng
khi đi gần tới mấy cái lùm chuối hồi nãy, tự nhiên
tiếng gió lại rít lên từng cơn nghe rợn người. Thật
lạ lùng chưa! Chú thầm nghĩ trong bụng: "Nơi đây không
một bóng người qua lại, còn trên trời vẫn trong sáng
ánh sao vì đêm này không có ánh trăng, nhưng tại sao chỉ
có chỗ này lại biến đổi?" Rồi từ đâu một đóm
lửa to lớn xuất hiện từ khóm cây gần đó, chầm chậm
bay gần đến chỗ chú đang đứng. Chú lập tức định
thần và bắt dấu ấn, ngón tay cái chụm đầu vào ngón
út. Thoạt đầu chỉ có đóm lửa thôi, nhưng sau đó liền
hóa ra một khuôn mặt xanh lè, lớn bằng cái sàng, có nanh
có gút trông thật quái dị khác thường. Rồi thình lình
có tiếng động ở phía sau vườn, tàu dừa khô rụng xuống
đánh "soạt" một cái ngã ngang lên đám bông bụp...
Tôi giựt mình hốt hoảng, chụp lấy vai má tôi la lên:
- Ới... ới, ghê quá.
Bà nghiêng người sắp văng khỏi ghế, nhưng gượng lại
được, lấy tay đẩy tôi về vị trí cũ, mắng yêu:
- Mắc chứng ôn gì mà mầy làm kỳ quá vậy hả Lựu? Để
yên cho ba mầy kể hết chuyện coi nè.
Tôi lặng thinh ngồi xếp gie, không dám cục cựa. Ngoài
thềm ba, hai con Mực và Vện đang nằm nhóc mỏ, vễnh lỗ
tai lên. Hình như chúng cũng chực sủa... ma, xua đuổi
những oan hồn còn lảng vảng đâu đây. Nãy giờ thằng Be
cũng yên lặng, tịnh khẩu như tôi, nhưng bỗng dưng nó bật
cười lên... "há, há, há..." làm tôi phát tức. Đã vậy,
nó còn chêm thêm mấy lời:
- Chị Lựu coi bộ nhát gan quá vậy, rồi lát nữa làm sao
chị đi rửa chén ở đàng sau sàn nước đây chớ?
Tôi lườm nó một cái và nói đưa đẩy:
- Đừng có làm tàng! Một chút nữa mầy còn phải lội
bộ về chuồng trâu nghe em! Cái mặt đang sợ quíu đít kia
mà không biết lo thân phận.
Be cười tiếp thêm một tràng nữa, đáp lại:
- Chị khỏi lo, quỷ tôi còn không ngán thì đừng nói chi tới
ba cái vụ ma cỏ lẻ tẻ đó! Ăn thua gì!
Ba tôi vội ngắt ngang lời qua tiếng lại của hai đứa tụi
tôi. Ông quẹt hột quẹt để mồi thêm điếu thuốc nữa và
ra vẻ đăm chiêu. Tằng hắn hai tiếng lấy giọng, ông nói
tiếp:
- Trong lúc đó sẵn có cái mác vót trên tay, chú đưa lên
chém lia lịa vào cái mặt ghê rợn ấy. Nhưng chẳng may cho
những tàu lá chuối quanh đó, vô tình bị chém đứt ngang,
bay lả tả và rớt ngổn ngang xuống đất. Bất chợt, chú
sực nhớ đến vợ con đang ở nhà có một mình, chú liền
nhanh chân chạy một hơi về đến trước hiên. Dưới ánh
đèn leo lét, chú đưa mắt nhìn vô bộ ván gõ thấy vợ
chú đang bồng đứa con trai hai tuổi, than khóc thảm thương.
Trời đất, hình như con chú đã tắt thở từ lúc nào
rồi. Chú bỏ đục, rổ, dao... mọi thứ dựa vào vách,
bước vội vô nhà lại gần đỡ lấy đứa con trên tay
vợ, nước mắt ràn rụa tuôn trào. Vợ chú nhìn chú,
nức nở: "Phải chi có anh ở nhà thì chắc thằng nhỏ
không ra nông nỗi nầy! Nó đang ngủ say sưa, bỗng nhiên
giựt mình thức dậy, kêu khóc thất thanh mấy bận, rồi
mình mẩy nóng ran, mồ hôi đổ ra như tắm. Một chặp
nữa thì hai con mắt lờ đờ, tay chưn dịu nhiễu rồi
nằm im luôn. Không biết trời trăng gì hết, bây giờ
biết phải tính làm sao đây hả ba thằng Tiếu?"
Tới đây má tôi cũng mủi lòng, sụt sùi, hít hít:
- Vậy rồi chú thím nó giải quyết công chuyện đó như
thế nào hả ông?
- Thì sau khi chôn cất đứa con xong, vợ chồng chú liền
quyết định giở bỏ căn nhà đó. Dời ra gần ruộng để
sanh sống với nghề nông, bỏ nghiệp làm vườn trong thôn
sâu. Ở ngoài ruộng chòm xóm có phần gần gũi nhau hơn,
lỡ có bề gì chạy tới chạy lui cũng tiện. Vả lại chú
muốn thay đổi cuộc sống để quên đi hình ảnh đứa
con mà hai vợ chồng chú hằng thương xót, khổ đau, nuôi
nấng. Nhưng có một vật mà chú muốn gìn giữ lại, tuy
rằng nó không đáng giá là bao, nhưng chú thiết tưởng
đến công lao của cha mẹ mình đã ra công tìm kiếm và
gầy giống bên ngôi nhà cũ. Đó chính là giống "bông
sua đũa tím" mà má mầy nấu nồi canh chua hồi chiều
nầy. Hiện nay chú đang chiết con và trồng được rất
nhiều ở xung quanh nhà mới... Sự việc này làm ba hết
sức ngạc nhiên, và ba có hỏi chú tại sao chú thích làm
như vậy thì chú đã cho biết một điều. Đó là nỗi
tiếc thương khó quên của chú đối với gia đình, vì không
những con của chú mà luôn cả cha mẹ yêu quí của chú đều
đã chết tức tưởi trong đêm khuya tăm tối như vậy trong
mảnh vườn kia. Cứ mỗi độ thu về nhìn loài hoa sua đũa
tím nở rộ, chúng như đã thầm nhắc cho chú những kỷ
niệm ngậm ngùi xa xưa ấy mà chú không bao giờ quên. Màu
tím ấy như đã đem lại cho chú tất cả các hình ảnh mẹ
cha, con cái thân thương...
Sau câu chuyện đó, ba tôi kết luận với vẻ quả quyết:
- Nhiều khi con người ta cũng đừng khư khư, coi thường
sức mạnh cõi vô hình mà chuốc lấy những thất bại ê
chề. Có khi đi đến chỗ nguy hiểm đến tính mạng, ân
hận suốt đời nữa.
Má tôi nhìn ba trong sự đồng ý, cảm thông nhưng bà bỗng
lên tiếng cắt đứt câu chuyện:
- Con Lựu đứng dậy đi ra đàng sau sàn nước rửa chén
đi. Nhớ thăm chừng mấy cái khạp nước coi có cái nào
cạn không, châm đầy cho má! Làm lẹ lẹ lên đặng rồi
còn đi tắm rửa, lo bài vở cho ngày mai nữa. Nhớ nghen,
ban đêm ban hôm con gái không nên ngồi lâu dựa mé mương à!
Kế đến, ba tôi cũng không quên nhắc chừng thằng Be:
- Be nè, lát nữa trở về chòi nhớ un muỗi cho mấy con
trâu nghen mậy! Đừng ham đánh bài cào với đám bạn của
mầy mà quên lời tao dặn à nha!
Tôi lặng lẽ bước ra ngoài. Bóng đêm đã dầy đặc, giơ
bàn tay lên cũng không thấy. Trong tâm tư tôi lại miên man
nghĩ đến chuyện vừa qua. Có lẽ con người ta từ lúc
sinh ra đã phải nhận lấy những nỗi khổ đau, cay đắng
cho đến lúc chết, tôi nhủ thầm! Vậy mà không ai có thể
vượt qua được những điều lệ đó. Chúng ta đã hiểu
gì, biết gì về cái tận cùng thâm sâu, huyền bí của bóng
đêm? Cũng như cái huyền bí của màu hoa tím, của loài bông
sua đũa mà tôi mới nghe qua lần đầu. Màu tím đó như đã
chôn chặt một nỗi sầu bi, chồng chất bên lòng. Màu tím
đó đẹp quyến rũ, nhưng lạnh lùng xa vắng của một thế
giới bên kia. Lòng tin của con người có hay không, đôi lúc
lại ứng nghiệm và ảnh hưởng mạnh đến đời sống hiện
tại... Từ đâu đó một luồng gió lạnh thổi đến làm tôi
chợt rùng mình. Nhưng tôi bỗng dưng cương quyết nhìn thẳng
vào bóng đêm huyền bí, đi lần về phía nhà tắm.
Ngày mai, tôi có chuyện để kể cho con Sương nghe rồi, không
phải chuyện đời xửa đời xưa mà là chuyện rất gần với
hiện tại, chuyện... bông sua đũa tím!
- Từ khóa :
- Truyện
Gửi ý kiến của bạn